Ung thư tuyến giáp là bệnh xảy ra khi có sự bất thường trong sự phát triển của các tế bào ở tuyến giáp. Các tế bào ung thư sẽ tạo thành khối u ác tính ở vùng tuyến giáp.
Tuyến giáp là một phần của hệ thống nội tiết, tuyến giáp có nhiệm vụ sản xuất ra các hormone điều chỉnh quá trình trao đổi chất của cơ thể. Các hormone tuyến giáp cũng giúp kiểm soát nhiệt độ cơ thể, huyết áp, nhịp tim.
Hầu hết các bệnh ung thư tuyến giáp đều có khả năng chữa khỏi cao. Tuy nhiên, bệnh nhân sau khi điều trị ung thư tuyến giáp có thể phải uống thuốc thay thế hormone tuyến giáp cả đời.
Ung thư tuyến giáp có thể được phân loại dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau, bao gồm nguồn gốc tế bào, mức độ phát triển và đặc điểm di truyền. Dưới đây là một phân loại phổ biến của ung thư tuyến giáp:
Các phương pháp điều trị ung thư tuyến giáp phụ thuộc vào loại và giai đoạn của bệnh, nhưng một số phương pháp phổ biến và hiệu quả nhất bao gồm:
Phương pháp này sẽ loại bỏ hoặc phần lớn tuyến giáp và các mô bị tổn thương. Phẫu thuật thường được sử dụng khi ung thư tuyến giáp ở giai đoạn sớm và chưa lan rộng ra xung quanh. Có hai loại phẫu thuật ung thư tuyến giáp chính, bao gồm:
Phẫu thuật cắt thùy tuyến giáp là phẫu thuật cắt bỏ một bên tuyến giáp có khối u. Đây là loại phẫu thuật ung thư tuyến giáp phổ biến nhất. Hầu hết các bệnh nhân ung thư tuyến giáp thể biệt hóa có khối u nhỏ, chưa lan rộng có thể được điều trị bằng phương pháp phẫu thuật này. Sau phẫu thuật, một số bệnh nhân phải uống thuốc thay thế hormone tuyến giáp mỗi ngày trong suốt quãng đường còn lại.
Phẫu thuật này phổ biến đối với các bệnh nhân ung thư tuyến giáp có khối u lớn ở hai bên tuyến giáp hoặc khối u đã xâm lấn sang có mô xung quanh. Trong quá trình này, bác sĩ sẽ phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn tuyến giáp, các hạch bạch huyết gần khối u cũng có thể bị cắt bỏ. Bệnh nhân đã cắt toàn bộ tuyến giáp sẽ phải uống thuốc thay thế hormone tuyến giáp hàng ngày trong suốt quãng đời còn lại.
Đây là phương pháp được sử dụng cho các loại ung thư tuyến giáp thể biệt hóa (thể nhú, thể nang), có xâm lấn tại chỗ, có nồng độ Tg cao sau phẫu thuật và đặc biệt có di căn xa. Tuy nhiên, phương pháp này lại không hiệu quả với ung thư tuyến giáp anaplastic hoặc tủy vì các tế bào ung thư đó không hấp thu iot.
Phương pháp điều trị ung thư tuyến giáp uống iod phóng xạ có thể được sử dụng để cắt bỏ (phá hủy) bất kỳ mô tuyến giáp nào không được loại bỏ bằng phẫu thuật hoặc để điều trị một số loại ung thư tuyến giáp đã di căn đến các hạch bạch huyết cũng như các bộ phận khác của cơ thể.
Vì các tế bào tuyến giáp đều có khả năng hấp thụ Iot, do đó có thể dùng Iot phóng xạ để điều trị ung thư tuyến giáp. Trong phương pháp điều trị này, bệnh nhân sẽ được uống thuốc chứa iot phóng xạ – Radioiodine (RAI, còn được gọi là I-131). Iot phóng xạ sẽ được các mô trong tuyến giáp hấp thu, lúc này các phóng xạ sẽ thực hiện nhiệm vụ tiêu diệt các tế bào ung thư.
Điều trị bằng Iot phóng xạ có thể thực hiện bất cứ lúc nào, nhưng thường là 6 tuần đến 6 tháng sau khi phẫu thuật cắt bỏ tuyến giáp. Bác sĩ sẽ xem xét tình trạng sau phẫu thuật như thế nào trước khi quyết định xem liệu iốt phóng xạ có cần thiết hay không.
Phụ nữ được khuyến khích không nên mang thai trong vòng một năm sau khi điều trị bằng Iot phóng xạ.
Phương pháp điều trị này sử dụng thuốc viên hormone tuyến giáp để ngăn chặn sự phát triển của các tế bào ung thư. Trong ung thư tuyến giáp thể biệt hóa, phương pháp điều trị bằng hormone có thể làm giảm hormone kích thích tuyến giáp (TSH). Hormone TSH có thể thúc đẩy sự phát triển của các tế bào ung thư tuyến giáp nếu không được kiểm soát.
Ngoài ra, tất cả các bệnh nhân ung thư tuyến giáp, sau khi được cắt gần toàn bộ hay toàn bộ tuyến giáp đều cần dùng các chế phẩm hormone thay thế. Theo khuyến cáo, liều sử dụng từ 50 – 200 µg/ngày uống 1 lần vào 8 giờ sáng. Duy trì hormone TSH 0.1 – 2 mUI/l.
Hóa trị điều trị ung thư tuyến giáp thường được sử dụng khi phẫu thuật không thể loại bỏ hết hoặc không thực hiện được. Điều này có thể xảy ra do ung thư tuyến giáp có khối lượng lớn hoặc đã lan ra xa.
Hóa trị thường được đưa vào điều trị cho ung thư tuyến giáp thể tủy và ung thư tuyến giáp dạng anaplastic. Loại thuốc hóa trị được sử dụng sẽ phụ thuộc vào loại ung thư tuyến giáp và mức độ lan rộng của ung thư. Một số loại thuốc điều trị ung thư tuyến giáp bao gồm:
Hóa trị tiêu diệt các tế bào ung thư cũng có thể phá hủy các tế bào khỏe mạnh lân cận. Do đó, hóa trị thường mang lại những tác dụng phụ cho bệnh nhân trong quá trình điều trị. Các tác dụng phụ bao gồm:
Xạ trị (radiotherapy) là một trong những phương pháp chính để điều trị ung thư tuyến giáp, đặc biệt là khi ung thư đã lan rộng hoặc không thể loại bỏ hoàn toàn bằng phẫu thuật.
Xạ trị sử dụng các tia năng lượng cao để tiêu diệt các tế bào ung thư trong cơ thể. Có hai hình thức xạ trị chính được sử dụng trong điều trị ung thư tuyến giáp:
Xạ trị ngoài: Tia phóng xạ được phát từ máy phóng xạ bên ngoài cơ thể, được chỉ định để tập trung vào khu vực ung thư tuyến giáp.
Xạ trị nội: Nguồn phóng xạ được đặt trực tiếp vào hoặc gần vùng ung thư. Đây là phương pháp phổ biến để điều trị ung thư tuyến giáp với các tế bào ung thư ở trong hay gần tuyến giáp.
Cũng như hóa trị xạ cũng có thể gây ra một số tác dụng phụ cho bệnh nhân do xạ trị có thể phá hủy một lượng nhỏ các mô khỏe mạnh. Một số bệnh nhân có thể gặp các tác dụng phụ sau xạ trị như:
Liệu pháp nhắm trúng đích là một phương pháp điều trị ung thư nhắm vào các mục tiêu phân tử cụ thể trong tế bào ung thư mà không gây tổn hại lớn đến các tế bào khỏe mạnh. Đây là một tiến bộ lớn trong điều trị ung thư vì nó giúp tăng cường hiệu quả điều trị và giảm tác dụng phụ so với các phương pháp điều trị truyền thống như hóa trị và xạ trị.
Hiện nay, liệu pháp nhắm trúng đích vẫn chưa phổ biến trong điều trị ung thư tuyến giáp so với các loại ung thư khác như ung thư vú, ung thư phổi, hay ung thư đại tràng,…Tuy nhiên, cũng có nhiều liệu pháp trúng đích cho bệnh ung thư tuyến giáp bao gồm:
Một số tế bào ung thư tuyến giáp có những đột biến trong gen BRAF. Gen này chỉ thị cho các tế bào tạo ra một protein để truyền tín hiệu hóa học đến tế bào. Thuốc ức chế BRAF, thường được dùng cùng với thuốc ức chế MEK (Mekinist) bao gồm:
Một số tế bào ung thư tuyến giáp có những đột biến trong gen NTRK, giúp các tế bào biết cách tạo ra các protein cần thiết cho tế bào thần kinh. Các chất ức chế NTRK bao gồm:
Một số tế bào ung thư tuyến giáp có những đột biến trong gen RET, gen này cho biết cách hoạt động của một số protein tế bào tuyến giáp. Chất ức chế RET bao gồm:
Thuốc ức chế multikinase là thuốc ngăn chặn các kinase khác nhau trong cùng một tế bào. Các loại thuốc này ngăn chặn nhiều protein ra lệnh cho tế bào phát triển hoặc hình thành mạch máu mới mà khối u cần để tồn tại.
Các phương pháp điều trị ung thư tuyến giáp này có thể được sử dụng độc lập hoặc kết hợp với nhau tùy theo từng trường hợp cụ thể và chỉ định của bác sĩ chuyên khoa.